Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình

481 2

Miễn phí

Tải về máy để xem đầy đủ hơn, bản xem trước là bản PDF

Tags: #nghiên cứu khoa học#báo cáo thực tập#luận văn

Mô tả chi tiết

Download "Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình"

Đóng góp về mặt kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, an ninh, quốc phòng và khả năng áp dụng của đề tài: Về mặt lý luận: Đóng góp một số ý kiến về các nội dung còn hạn chế, từ đó có những sửa đổi – bổ sung một cách phù hợp nhất với các quy định áp dụng vào thực tiễn; sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu sinh viên có liên quan đến quy định này;... Về mặt thực tiễn: Mở rộng cách thức tuyên truyền và nâng cao ý thức người dân trong việc áp dụng pháp luật vào đời sống khi xã hội ngày càng hội nhập phát triển; hạn chế các trường hợp phát sinh tranh chấp về vấn đề hôn nhân và gia đình, đặc biệt là vấn đề giải quyết tài sản của vợ chồng xảy ra trong và sau thời kỳ hôn nhân,...

Nội dung

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN CHẾ ĐỘ TÀI SẢN THEO THỎA THUẬN CỦA VỢ CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 2014 Mã số đề tài: Tp. Hồ Chí Minh, 04/2017BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN CHẾ ĐỘ TÀI SẢN THEO THỎA THUẬN CỦA VỢ CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 2014 Mã số đề tài: Chủ nhiệm đề tài : Lê Thị Thanh Trúc Khoa : Luật Các thành viên : Hoàng Đỗ Quỳnh Trang Trịnh Đình Vĩ Người hướng dẫn : Ths. Phạm Thị Kim Phượng Tp. Hồ Chí Minh, 04/2017BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 1. Thông tin chung: - Tên đề tài: Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 - Sinh viên thực hiện: LÊ THỊ THANH TRÚC - Lớp: DH14LK06 Khoa: Luật Năm thứ: 3 Số năm đào tạo: 04 - Người hướng dẫn: Ths. PHẠM THỊ KIM PHƯỢNG 2. Mục tiêu đề tài: Thông qua việc nghiên cứu đề tài, nhóm nghiên cứu muốn giúp mọi người – những người chưa và sẽ bước vào cuộc sống hôn nhân có nhiều hiểu biết hơn về quyền lợi, nghĩa vụ của mình khi quyết định lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận và đảm bảo việc tuân thủ các quy định của pháp luật. Đồng thời, nhóm tác giả qua việc nghiên cứu của mình sẽ căn cứ vào những điểm chưa đáp ứng với thực tiễn để mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị nhằm có thêm những hướng giải quyết khi áp dụng pháp luật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia chế độ tài sản theo thỏa thuận trong mối quan hệ hôn nhân và gia đình và hi vọng trong tương lai sẽ có những cơ chế, chính sách áp dụng đúng – đủ cho mối quan hệ hôn nhâ n lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận. Cụ thể hóa mục tiêu trên thông qua việc thực hiện các mục tiêu nhỏ sau: • Tìm hiểu - nghiên cứu về lịch sử hình thành phát triển của chế độ tài sản giữa vợ và chồng của một số quốc gia và Việt Nam; • Nghiên cứu và nêu lên một số ý kiến về chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng theo Luật hiện hành; • Đưa ra một số kiến nghị và giải pháp về thi hành, áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng.3. Tính mới và sáng tạo: Đề tài “Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng” là một đề tài mang một hướng đi mới khi đưa ra cái nhìn tổng quan về mối quan hệ tài sản với cuộc sống hôn nhân, không chỉ khái quát về quá trình lịch sử hình thành và phát triển của các chế độ tài sản được công nhận tại Việt Nam mà nhóm nghiên cứu còn sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh với một số nước trên thế giới nhằm đưa ra những mối liên hệ đương đồng hay sự khác biệt của quy định này giữa các quốc gia, từ đó phát hiện được những mặt được và những mặt còn hạn chế trong pháp luật hôn nhân tại Việt Nam. Trong khi các quốc gia trên thế giới đã có sự thừa nhận thì Việt Nam vẫn chưa thừa nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng đến trước năm 2014 và sau đó cũng đã có sự thừa nhận nhưng vẫn còn có những hạn chế trong quy định. Tuy nhiên với sự phát triển của xã hội thì đây cũng là điều tất yếu trong việc nâng cao quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc tôn trọng quyền tự do của công dân trong khuôn khổ của pháp luật. Nhận thấy được điều này, nhóm tác giả đã thực hiện đề tài “Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình 2014” thông qua quá trình nghiên cứu, phân tích về mặt nội dung, hình thức các quy định về chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng, qua đó đóng góp những ý kiến cho việc nâng cao và hoàn thiện hơn pháp luật trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. 4. Kết quả nghiên cứu: Kết quả nghiên cứu giúp làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, cụ thể là về chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng theo Luật hiện hành. Trên cơ sở so sánh, đánh giá các quy định giữa các nước chỉ ra những tiến bộ và mặt còn hạn chế, bất cập trong việc áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng, đề ra các giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo cho hoạt động áp dụng pháp luật trong thực tế đạt hiệu quả. Đồng thời, kết quả nghiên cứu có thể sử dụng cho mục đích tham khảo làm tài liệu, làm cơ sở cho các nghiên cứu khác.5. Đóng góp về mặt kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, an ninh, quốc phòng và khả năng áp dụng của đề tài: Về mặt lý luận: Đóng góp một số ý kiến về các nội dung còn hạn chế, từ đó có những sửa đổi – bổ sung một cách phù hợp nhất với các quy định áp dụng vào thực tiễn; sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu sinh viên có liên quan đến quy định này;... Về mặt thực tiễn: Mở rộng cách thức tuyên truyền và nâng cao ý thức người dân trong việc áp dụng pháp luật vào đời sống khi xã hội ngày càng hội nhập phát triển; hạn chế các trường hợp phát sinh tranh chấp về vấn đề hôn nhân và gia đình, đặc biệt là vấn đề giải quyết tài sản của vợ chồng xảy ra trong và sau thời kỳ hôn nhân,... 6. Công bố khoa học của sinh viên từ kết quả nghiên cứu của đề tài (ghi rõ tên tạp chí nếu có) hoặc nhận xét, đánh giá của cơ sở đã áp dụng các kết quả nghiên cứu (nếu có): Ngày tháng năm Sinh viên chịu trách nhiệm chính thực hiện đề tài (ký, họ và tên) Lê Thị Thanh TrúcNhận xét của người hướng dẫn về những đóng góp khoa học của sinh viên thực hiện đề tài: ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... Ngày tháng năm Xác nhận của đơn vị (ký tên và đóng dấu) Người hướng dẫn (ký, họ và tên) Phạm Thị Kim PhượngBỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc THÔNG TIN VỀ SINH VIÊN CHỊU TRÁCH NHIỆM CHÍNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI I. SƠ LƯỢC VỀ SINH VIÊN: Họ và tên: LÊ THỊ THANH TRÚC Sinh ngày: 17 tháng 03 năm 1996 Nơi sinh: Ninh Thuận Lớp: DH14LK06 Khóa: 2014 - 2018 Khoa: Luật Địa chỉ liên hệ: 27/70/64 Đường số 9, Phường 16, Quận Gò Vấp, Tp.Hồ Chí Minh Điện thoại: 01664 577 055 Email: [email protected] II. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP: * Năm thứ 1: Ngành học: Luật Kinh tế Khoa: Luật Kết quả xếp loại học tập: 5.96 Sơ lược thành tích: * Năm thứ 2: Ngành học: Luật Kinh tế Khoa: Luật Kết quả xếp loại học tập: 6.49 Sơ lược thành tích: Ngày tháng năm Xác nhận của đơn vị (ký tên và đóng dấu) Sinh viên chịu trách nhiệm chính thực hiện đề tài (ký, họ và tên) Lê Thị Thanh Trúc Ảnh 4x6BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc THÔNG TIN VỀ SINH VIÊN CHỊU TRÁCH NHIỆM CHÍNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI I. SƠ LƯỢC VỀ SINH VIÊN: Họ và tên: HOÀNG ĐỖ QUỲNH TRANG Sinh ngày: 11 tháng 09 năm 1996 Nơi sinh: Đà Lạt – Lâm Đồng Lớp: DH14LK06 Khóa: 2014 - 2018 Khoa: Luật Địa chỉ liên hệ: 332/201/30H Dương Quảng Hàm, Phường 5, Quận Gò Vấp, Tp. Hồ CHí Minh Điện thoại: 01685674073 Email: [email protected] II. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP: * Năm thứ 1: Ngành học: Luật Kinh tế Khoa: Luật Kết quả xếp loại học tập: 7.31 Sơ lược thành tích: * Năm thứ 2: Ngành học: Luật Kinh tế Khoa: Luật Kết quả xếp loại học tập: 7.07 Sơ lược thành tích: Ngày tháng năm Xác nhận của đơn vị (ký tên và đóng dấu) Sinh viên chịu trách nhiệm chính thực hiện đề tài (ký, họ và tên) Hoàng Đỗ Quỳnh Trang Ảnh 4x6BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc THÔNG TIN VỀ SINH VIÊN CHỊU TRÁCH NHIỆM CHÍNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI I. SƠ LƯỢC VỀ SINH VIÊN: Họ và tên: TRỊNH ĐÌNH VĨ Sinh ngày: 24 tháng 03 năm 1996 Nơi sinh: Triệu Giang, Triệu Phong, Quảng Trị Lớp: DH14LK06 Khóa: 2014 - 2018 Khoa: Luật Địa chỉ liên hệ: 154 Hồ Văn Long, Phường Bình Hưng Hòa B, Quận Bình Tân, Tp. Hồ Chí Minh Điện thoại: 01677604990 Email: [email protected] II. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP: * Năm thứ 1: Ngành học: Luật Kinh tế Khoa: Luật Kết quả xếp loại học tập: 6.13 Sơ lược thành tích: * Năm thứ 2: Ngành học: Luật Kinh tế Khoa: Luật Kết quả xếp loại học tập: 7.00 Sơ lược thành tích: Ngày tháng năm Xác nhận của đơn vị (ký tên và đóng dấu) Sinh viên chịu trách nhiệm chính thực hiện đề tài (ký, họ và tên) Trịnh Đình Vĩ Ảnh 4x6MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................ 4 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN THEO THỎA THUẬN CỦA VỢ CHỒNG .......................................................................................... 4 1.1 Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của chế độ tài sản của vợ chồng .... 4 1.1.1 Lịch sử phát triển của chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng tại một số nước trên thế giới ...................................................................................... 4 1.1.2 Lịch sử phát triển về chế độ tài sản của vợ chồng tại Việt Nam ............... 15 1.2 Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ, chồng .................................................. 24 1.2.1 Khái niệm về chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng ...................... 25 1.2.2 Đặc điểm của chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng ...................... 25 1.2.3 Ý nghĩa của chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng......................... 26 1.3 Quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận ......... 27 1.3.1 Nguyên tắc áp dụng ................................................................................... 27 1.3.2 Hình thức và nội dung ............................................................................... 28 1.3.3 Điều kiện để chế độ tài sản theo thỏa thuận có hiệu lực ........................... 32 1.3.4 Thay đổi, sửa đổi ....................................................................................... 32 1.3.5 Văn bản thỏa thuận bị vô hiệu ................................................................... 34 1.4 So sánh giữa Luật Việt Nam với một số nước trên thế giới về chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng ................................................................................. 37 1.4.1 Về mặt tương đồng .................................................................................... 37 1.4.2 Về mặt khác biệt ........................................................................................ 38 Chương 2 MỘT SỐ Ý KIẾN CỦA NHÓM NGHIÊN CỨU VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN THEO THỎA THUẬN CỦA VỢ CHỒNG TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 2014 .................................................................................................................... 44 2.1 Mặt tích cực – thuận lợi .................................................................................... 44 2.1.1 Mở ra thêm một sự lựa chọn mới về chế độ tài sản của vợ chồng cho các bên ................................................................................................................ 44 2.1.2 Việc các bên lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận sẽ là cơ sở ........................................................................................................................ 452.1.3 Hội nhập cùng thế giới .............................................................................. 46 2.2 Mặt hạn chế - khó khăn .................................................................................... 46 2.2.1 Chế độ này ít được lựa chọn trên thực tế .................................................. 46 2.2.2 Thời điểm lập văn bản thỏa thuận ............................................................. 49 2.2.3 Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng chỉ “lập một lần” .................. 49 2.2.4 Về mặt nội dung văn bản thỏa thuận ......................................................... 50 Chương 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ THI HÀNH VÀ ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TÀI SẢN THEO THỎA THUẬN CỦA VỢ CHỒNG .............................................................. 52 3.1 Đẩy mạnh công tác hướng dẫn, phổ biến cho người dân ................................. 53 3.2 Hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan ..................................................... 53 3.3 Tăng cường công tác quản lý Nhà nước ........................................................... 55 3.3.1 Giải pháp nâng cao chất lượng công chứng của các tổ chức hành nghề công chứng ......................................................................................................... 55 3.3.2 Nâng cao vị trí, vai trò của người làm công tác đăng ký kết hôn .............. 56 3.4 Một số quy định cần sửa đổi, bổ sung về chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng .................................................................................................................. 57 PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................................... 58 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 60DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật dân sự BLHS Bộ luật hình sự BTP Bộ Tư pháp CH Pháp Cộng hòa Pháp CP Chính phủ Common Law Tên gọi của hệ thống Thông luật hay còn có tên gọi khác là luật Anh Mỹ, Luật Anglo Saxon, Luật Án lệ HN&GĐ Hôn nhân và gia đình Luật HN&GĐ Luật hôn nhân và gia đình Nghị định số 126/2014 Nghị định số 67/2015 Nghị định số 126/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hôn nhân và gia đình Nghị định số 67/2015 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. QH Quốc hội TANDTC Tòa án Nhân dân Tối cao Thông tư liên tịch số 01/2016 Thông tư liên tịch số 01/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp về hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình UPAA Uniform Premarital Agreement Act VKSNDTC Viện Kiểm sát Nhân dân Tối caoTrang 1 PHẦN MỞ ĐẦU Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định rằng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc...”. Với quyền mưu cầu hạnh phúc thì vấn đề được quan tâm trên hết là gặp gỡ và dẫn đến hôn nhân giữa hai bên nam – nữ, đây là quyền tự nhiên của con người đã được pháp luật ghi nhận và bảo vệ trong Hiến pháp và cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật khác. Kết hôn là nền tảng quan trọng để tạo dựng gia đình, hình thành “tế bào” mới của xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển. Kết hôn dẫn đến hình thành nhiều mối quan hệ đặc thù, trong đó có nhiều vấn đề cần quan tâm như quan hệ về tài sản, con cái, quyền lợi và nghĩa vụ khác của các bên... mà đặc biệt cần chú ý đến quan hệ tài sản của hai bên nam – nữ khi quyết định kết hôn với nhau. Việc xác lập “chế độ tài sản” trong mối quan hệ hôn nhân và gia đình được chú trọng, cụ thể là chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng - một điểm mới được Luật hôn nhân và gia đình 2014 ghi nhận. Đây là quy định có khả năng áp dụng cao trong cuộc sống, bởi vì bất kỳ ai ngoài cuộc sống chung cũng cần có cuộc sống cho riêng mình và ai cũng mong muốn cuộc hôn nhân của mình được hạnh phúc, thế nên việc pháp luật quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận phần nào đã tôn trọng ý chí của các chủ thể tham gia vào quan hệ hôn nhân và gia đình. Do mới được ban hành cho nên chưa có nhiều cặp đôi lựa chọn và pháp luật về chế độ tài sản theo thỏa thuận còn rất nhiều vấn đề chưa rõ ràng, cụ thể cho nên áp dụng vào thực tiễn gây khó khăn cho cả người dân và cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Điều này tác động không nhỏ đến hiệu quả điều chỉnh và quản lý pháp luật về vấn đề tài sản của vợ chồng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của vợ và chồng, của gia đình và xã hội. Do đó, yêu cầu cần thiết có sự tìm hiểu, nghiên cứu cụ thể về vấn đề này để đưa ra đánh giá chính xác hơn những quy định đã đáp ứng và chưa đáp ứng được trong thực tế đời sống, qua đó có những kiến nghị bổ sung, thay đổi các quy định nhằm hoàn thiện pháp luật hơn. Trên thế giới hầu như các quốc gia đã cho phép áp dụng chế định thỏa thuận tài sản trong hôn nhân từ khá sớm; chỉ còn một số ít nước chưa quy định vấn đề này nhưTrang 2 Nga, Bungari, Hungari,...còn ở Việt Nam đây là lần đầu tiên quy định, vậy việc công nhận này sẽ có ảnh hưởng như thế nào đối với cuộc sống hôn nhân của vợ, chồng tại Việt Nam. Mặc dù trong xã hội hiện nay, tỷ lệ số người chọn loại “chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng” chưa thực sự đáng kể nhưng trong tương lai có thể xu hướng này sẽ gia tăng vì luật hiện hành đã cho phép, công nhận và bảo vệ quyền lợi cho các bên. Với yêu cầu đặt ra ở trên, nhóm nghiên cứu mong muốn được nghiên cứu sâu vấn đề “Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình 2014”, đặc biệt là ở khía cạnh áp dụng pháp luật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận trong mối quan hệ hôn nhân và gia đình, từ đó mạnh dạn đề xuất một số ý kiến, kiến nghị nhằm hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, góp phần giữ vững ổn định đối với sự phát triển của xã hội. 1. Lý do và mục đích chọn đề tài Thông qua việc nghiên cứu đề tài, nhóm nghiên cứu muốn giúp các đối tượng là những người chưa và sẽ bước vào cuộc sống hôn nhân có nhiều hiểu biết hơn về quyền lợi, nghĩa vụ của mình khi quyết định lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận hay là theo luật định và đảm bảo việc tuân thủ các quy định của pháp luật. Đồng thời, qua việc nghiên cứu các quy định pháp luật, nhóm tác giả sẽ đưa ra một số kiến nghị nhằm có thêm những hướng giải quyết khi áp dụng pháp luật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia chế độ tài sản theo thỏa thuận trong mối quan hệ hôn nhân và gia đình và hy vọng trong tương lai sẽ có những cơ chế, chính sách áp dụng đúng – đủ cho mối quan hệ hôn nhân lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận. Cụ thể hóa mục tiêu trên thông qua việc thực hiện các mục tiêu nhỏ sau:  Tìm hiểu - nghiên cứu về lịch sử hình thành phát triển của chế độ tài sản giữa vợ và chồng của một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam.  Nghiên cứu và nêu lên một số ý kiến về chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng theo Luật hiện hành.  Đưa ra một số kiến nghị và giải pháp về thi hành, áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứuTrang 3  Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu về đối tượng là các quy định pháp luật về chế độ tài sản theo thỏa thuận giữa vợ chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình.  Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng là một quy định mới nên thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu, nhóm tác giả sẽ tập trung vào phần lịch sử hình thành và phát triển của chế độ này tại một số quốc gia, cũng như cơ sở lý luận mang tính khái quát như giải thích từ ngữ, đặc điểm, ý nghĩa, đồng thời đưa ra một số điểm so sánh với các quốc gia có chế định này. Về phần đánh giá thực tiễn áp dụng chế độ này tại Việt Nam sẽ không được chuyên sâu vì các quan hệ phát sinh trong trường hợp có sự thỏa thuận về tài sản giữa vợ chồng trên thực tế là chưa nhiều. 3. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cơ sở lý luận về chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng và đề tài nghiên cứu có hiệu quả, nhóm tác giả sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu các cách thức thi hành và áp dụng quy định này tại Việt Nam với một số quốc gia khác. Các thao tác phân tích, tổng hợp và đánh giá được khai thác trong quá trình nghiên cứu đề tài thông qua việc đưa ra luận cứ và trình bày luận chứng để xem xét cụ thể từng vấn đề cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn nhằm làm sáng tỏ các vấn đề được đề cập đến trong bài nghiên cứu. 4. Kết cấu đề tài: Đề tài được chia làm 3 phần, bao gồm: Phần Mở đầu, Phần Nội dung, Phần Kết luận. Trong đó Phần Nội dung được chia thành 3 chương:  Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng  Chương 2. Một số ý kiến của nhóm nghiên cứu về chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng trong Luật hôn nhân và gia đình 2014  Chương 3. Một số kiến nghị về thi hành và áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng thông qua tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật.Trang 4 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN THEO THỎA THUẬN CỦA VỢ CHỒNG Chương này trình bày vài nét sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của chế độ tài sản của vợ chồng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới như Mỹ, Pháp, Nhật, Thái Lan và Trung Quốc. Đồng thời, tìm hiểu rõ các quy định về nguyên tắc áp dụng, hình thức, nội dung, điều kiện để thỏa thuận về CĐTS có hiệu lực, thay đổi, bổ sung hợp pháp để tránh thỏa thuận bị vô hiệu theo quy định hiện hành của Việt Nam. Từ đó, tiến hành việc so sánh để đưa ra được điểm tương đồng và khác biệt trong quy định của nước ta và một số nước trên thế giới. 1.1 Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của chế độ tài sản của vợ chồng 1.1.1 Lịch sử phát triển của chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng tại một số nước trên thế giới Chế độ tài sản theo thỏa thuận không còn là điều mới lạ với nhiều nước trên thế giới, ngược lại, nó đã tồn tại từ rất sớm. Theo hình thái hôn nhân cổ xưa Manus, người phụ nữ phải lệ thuộc vào uy quyền của người chồng đã được bãi bỏ một cách rộng khắp vào thời kỳ đế quốc và một người phụ nữ đã lập gia đình có quyền giữ lại quyền sở hữu với bất kỳ của hồi môn nào mà họ sở hữu. Về mặt pháp lý, khi kết hôn thường tự lập thỏa thuận trong đó ghi xác định trước quan hệ tài sản giữa họ với nhau trong cuộc sống tương lai đồng thời cũng nêu rõ những điều kiện thừa kế tài sản khi một bên vợ (chồng) chết. Việc thỏa thuận như vậy thể hiện sự độc lập và không vụ lợi trong quan hệ tài sản của các bên nam nữ khi tiến tới hôn nhân nhưng họ vẫn nằm dưới thẩm quyền pháp lý của người cha, bất kể là họ đã đi lấy chồng chăng nữa và chỉ khi nào người cha qua đời, họ mới được tự do về mặt pháp lý. Nhiều nước trên thế giới ghi nhận sự thỏa thuận này trong pháp luật quốc gia mình, tuy nhiên mỗi quốc gia lại có thuật ngữ, quy định quá trình tạo lập cũng như công nhận sự thỏa thuận này không giống nhau. Trong đó, thuật ngữ “hôn ước” được sử dụng khá phổ biến, thuật ngữ này được hiểu: là văn bản do hai bên nam nữ lậpTrang 5 trước khi kết hôn theo thể thức nhất định. Đây là chế độ tài sản ước định, còn gọi là thỏa thuận tiền hôn nhân về tài sản. Trong đó ghi nhận sự thỏa thuận của họ về chế độ tài sản vợ chồng được áp dụng trong thời kỳ hôn nhân và chỉ phát sinh hiệu lực trong thời kỳ hôn nhân. Phần lớn các quốc gia phát triển, đang phát triển trên thế giới hiện nay đều quy định chế độ tài sản theo thỏa thuận song hành cùng với chế độ tài sản pháp định, tiêu biểu có Mỹ, Pháp là các quốc gia châu Âu; Trung Quốc, Nhật Bản là các quốc gia châu Á đã công nhận khá sớm chế độ thỏa thuận về tài sản của vợ chồng và tại Việt Nam mới đây cũng đã công nhận chế độ này với tên gọi “chế độ tài sản theo thỏa thuận” cùng với chế độ tài sản pháp định được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình 2014. Nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu quy định chế độ tài sản theo thỏa thuận của một số trên thế giới như Mỹ, Anh, Nhật Bản, Thái Lan và Trung Quốc nhằm tìm ra những ưu điểm và khuyết điểm của quy định này.  Mỹ Mỹ (tên gọi đầy đủ là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ hay Hợp chúng quốc Mỹ) là một Cộng hòa lập hiến liên bang gồm có 50 tiểu bang và một đặc khu liên bang. Mỹ trước đây không công nhận hôn ước vì cho rằng nó hủy hoại hôn nhân. Đặc biệt là vào thế kỷ XVIII thì Thông luật (Common law) không cho phép vợ chồng lập hôn ước bởi vì họ cho rằng khi hai người kết hôn thì họ đã hòa làm một và không thể có giao dịch khi chỉ có một chủ thể. Một lí do nữa là một người phụ nữ đã có chồng thì họ không được phép tham gia ký kết các hợp đồng trừ khi đã ly thân. Đến khoảng giữa thế kỷ XIX thì một số án lệ ở Mỹ đã cho phép sự tồn tại của hôn ước vì sự phát triển của xã hội và đến tháng 7 năm 1983 một đạo luật về hôn ước (Uniform premarital agreement Act gọi tắt là UPAA) đã được ban hành dựa trên kết quả của các án lệ, UPAA được chấp nhận ở 26 bang của Mỹ, một số bang còn lại có những quy định khác hay đặc biệt hơn so với UPAA. Hiện nay, quy định về chế độ hôn ước đã được công nhận rộng rãi trên toàn nước Mỹ và có thể nói rằng không có ở một quốc gia nào mà vấn đề lập hôn ước lại trở nên phổ biến như ở Mỹ. Ở đây, những người có mức sống cao hoặc những người thừa kế giàu có thường gặp rất nhiều phiền toái với vợ/chồng cũ của mình, cũng như luật sư của cô/anh ta trong suốt thời kỳ giải quyết việc ly hôn. Thêm vào đó, những luật sưTrang 6 làm về luật gia đình đặc biệt là giải quyết các vụ ly hôn thường có thu nhập rất cao, tổng phí phải chi trả cho một vụ ly hôn thường không dưới 150.000 USD (Một trăm năm mươi nghìn đô la Mỹ). Ngoài hôn ước (prenuptial agreement), Mỹ còn cho phép các cặp vợ chồng lập một thỏa thuận tương tự như hôn ước trong thời kỳ hôn nhân (postnuptial agreement tạm dịch là hậu hôn ước) nhằm đáp ứng yêu cầu thay đổi nội dung thỏa thuận ban đầu trong hôn ước, đáp ứng nhu cầu thực tế trong suốt quá trình hôn nhân. Theo UPAA hôn ước được đa số bang ở Mỹ áp dụng có một số đặc trưng như: + Về nội dung: các bên thỏa thuận trong hôn ước với các nội dung sau: - Quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với tài sản của một bên hoặc cả hai, phát sinh tại thời điểm trước hôn nhân và sau hôn nhân; - Quyền mua bán, sử dụng, chuyển nhượng, trao đổi, từ bỏ, cho thuê, tiêu dùng, sử dụng làm tài sản bảo đảm, thế chấp, cầm cố, tự định đoạt hay các quyền quản lý, kiểm soát khác đối với tài sản; - Định đoạt tài sản khi ly thân, ly hôn, khi qua đời, hoặc sự biến hay bất kỳ sự kiện nào khác; - Sự thay đổi hay chấm dứt việc cấp dưỡng giữa vợ chồng; - Lập chúc thư, ủy thác, hay các biện pháp khác để thực hiện các nội dung của thỏa thuận này; - Quyền sở hữu và chuyển nhượng từ tiền bảo hiểm tính mạng của một người; - Vấn đề lựa chọn luật điều chỉnh; - Các vấn đề khác bao gồm quyền và nghĩa vụ cá nhân nhưng không được vi phạm pháp luật và trái với chính sách công; - Quyền được chu cấp của con cái không thể bị ảnh hưởng theo chiều hướng bất lợi bởi hôn ước. Nội dung chủ yếu trong các hôn ước ở Mỹ là về tài sản, đặc biệt không được đề cập đến các vấn đề liên quan đến con cái vì các vấn đề này phải được Tòa quyết định dựa vào quyền lợi tốt nhất cho con. Tuy nhiên, theo báo New York Times (Mỹ) thì việc tranh giành quyền nuôi con là cuộc chiến khá căng thẳng của các cặp đôi sau ly hôn, dẫn đến tranh cãi rằng nên cho các cặp đôi đưa các vấn đề liên quan đến con cái vào hôn ước để tránh thực trạng này.Trang 7 + Về hình thức: hôn ước phải được lập bằng văn bản, được hai bên ký vào và không cần thêm một sự xem xét nào với hôn ước. + Về hiệu lực: - Hôn ước chỉ có hiệu lực trong thời kỳ hôn nhân; - Sau khi kết hôn, hôn ước có thể được các bên sửa đổi bằng cách lập thêm một văn bản khác và ký vào đó, sự sửa đổi này không cần thêm một sự xem xét nào cả. Tuy nhiên theo luật một số bang công nhân hôn ước tại Mỹ thì hôn ước còn có thể tự động hết hiệu lực sau 7 (bảy) năm áp dụng hay sau khi đứa con đầu tiên ra đời hay hôn ước chỉ được sửa đổi sau 1,5 (một năm rưỡi) năm áp dụng. Như vậy, hôn ước ở Mỹ được quy định tương đối mở cho các cặp vợ chồng trong việc thỏa thuận các nội dung. Và trên thực tế, các cặp đôi cũng rất quan tâm đến chế độ này, nó được thể hiện qua việc nhiều cặp đôi sẵn sàng chi trả một khoản tiền lớn cho Luật sư nhằm có được một bản hôn ước hợp pháp và chặt chẽ về nội dung và cả thủ tục.  Pháp Pháp (tên chính thức là Cộng hòa Pháp) là một quốc gia nằm tại Tây Âu, có một số đảo và lãnh thổ nằm rải rác trên nhiều lục địa khác. Pháp là một nước dân chủ theo thể chế Cộng hòa bán Tổng thống trung ương tập quyền. Nguyên tắc tự do lựa chọn chế độ tài sản trong hôn nhân bắt nguồn từ việc thực hiện nguyên tắc tự do ký kết hợp đồng đã được thừa nhận ở Pháp từ thế kỷ XVI, khi mà những quan hệ kinh tế, thương mại phát triển mạnh. Từ thời kỳ đó, luật pháp và tập quán đã thừa nhận những sự thỏa thuận của vợ chồng về chế độ tài sản phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của họ như là một quyền tự do cá nhân. Bộ luật dân sự 1804 hay còn gọi là Bộ luật Napoleon ra đời đã kế thừa và duy trì nguyên tắc này, đánh dấu Pháp là quốc gia đầu tiên thuộc hệ thống luật lục địa chính thức ghi nhận giá trị pháp lý của hôn ước trong văn bản quy phạm pháp luật. Bộ luật dân sự 1804 của Pháp là một sản phẩm của quá trình pháp điển hóa giữa những quy định mang tính chuẩn mực trong pháp luật La Mã và một số tập quán đương thời, nó thường được xem là khuôn vàng thước ngọc để các quốc gia khác học tập khi xây dựng dân luật. Bộ luật dân sự Pháp dành riêng thiên thứ năm quyển thứ ba để quy định về hôn ước và các chế độ tài sản vợ chồng. Thiên thứ năm được mở đầuTrang 8 bằng Điều 1378: “Pháp luật không điều chỉnh quan hệ tài sản giữa vợ và chồng nếu giữa vợ chồng đã có thỏa thuận riêng mà vợ chồng cho là phù hợp và không trái với thuần phong mỹ tục hoặc với các quy định sau đây...”. Như vậy, khi vợ chồng lập hôn ước thì chế độ tài sản của vợ chồng sẽ được điều chỉnh bằng hôn ước và họ có thể tự do thỏa thuận về vấn đề tài sản nhưng phải tuân theo pháp luật cả về nội dung lẫn hình thức. + Về nội dung: Chế độ tài sản mà vợ chồng có thể lựa chọn là chế độ tài sản chung (có thể lựa chọn chế độ cộng đồng toàn sản hoặc chế độ cộng đồng động sản và tạo sản) và chế độ tài sản riêng (chế độ biệt sản, chế độ tài sản riêng tương đối). Có thể thấy, việc thỏa thuận lựa chọn trong hôn ước của Pháp là lựa chọn chế độ tài sản, điều này làm mọi việc trở nên đơn giản hơn so với việc vợ chồng tự thỏa thuận đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng và sự chuyển hóa của các khối tài sản này như thế nào. - Với chế độ tài sản chung: * Chế độ cộng đồng toàn sản: Nếu vợ chồng thỏa thuận chọn chế độ cộng đồng toàn sản thì tất cả tài sản của vợ chồng hiện có và sẽ có (bao gồm cả tài sản riêng của vợ hoặc chồng trước thời kỳ hôn nhân) sẽ thuộc khối tài sản chung quy định tại Điều 1400 và Điều 1401 BLDS Pháp 1804, trừ những tài sản riêng của vợ chồng quy định tại Điều 1404 Bộ luật này (đồ dùng, tư trang cá nhân…). * Chế độ cộng đồng toàn sản và tạo sản: Về cơ bản sẽ gần giống với chế độ tài sản pháp định nhưng cũng có một số điểm khác biệt, cụ thể như: Vợ chồng có thể thỏa thuận về việc phân chia tài sản không đều nhau, về việc trích khấu tài sản có bồi thường. - Với chế độ tài sản riêng: * Chế độ biệt sản: Nếu lựa chọn chế độ tài sản này, vợ chồng không có tài sản cộng đồng mà mỗi bên giữ quyền quản lý, hưởng dụng và định đoạt đối với khối tài sản thuộc về mình. Mỗi bên vợ, chồng chịu trách nhiệm về những khoản nợ riêng và có nghĩa vụ đóng góp vào nhu cầu chung của gia đình. Việc thực hiện sẽ theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Trong quan hệ với người thứ ba, vợ chồng có thể dùng mọi cách để chứng minh rằng mọi tài sản thuộc về mình. * Chế độ tài sản riêng tương đối: Đây được coi là một chế độ tài sản hỗn hợp, nó tách riêng tài sản trong thời kỳ hôn nhân và cộng đồng tài sản khi chấm dứt hôn nhân.Trang 9 Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng thực hiện chế độ tách riêng tài sản, mỗi bên giữ một phần tài sản riêng và quyền quản lý, hưởng dụng và định đoạt. Vợ, chồng có trách nhiệm thực hiện những nghĩa vụ riêng bằng tài sản riêng của mình. Tuy nhiên, khi chấm dứt hôn nhân, mỗi bên được hưởng một nửa những tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân hiện còn. Ngoài những quy định chung về thủ tục và nội dung của hôn ước, hôn ước còn có quy định riêng dành cho các cặp vợ chồng có một trong hai người hoặc cả hai người là thương nhân lại có những yêu cầu đòi hỏi khác do đặc thù của việc sản xuất kinh doanh. Như vậy, hôn ước ở Pháp được quy định rất chặt chẽ về cả nội dung và thủ tục nhằm đảm bảo lợi ích của vợ chồng, người thứ ba và trật tự của xã hội. + Về hình thức: Hôn ước phải được lập bằng văn bản trước mặt Công chứng viên với sự có mặt và thỏa thuận chung của cả hai bên hoặc người được ủy quyền. Khi lập hôn ước, Công chứng viên cấp cho các bên giấy chứng nhận có ghi rõ họ tên, nơi cư trú của Công chứng viên, tư cách và nơi ở của các bên kết hôn, ngày lập hôn ước, trong giấy chứng nhận cũng phải ghi rõ là phải nộp giấy này cho viên chức hộ tịch trước khi đăng ký kết hôn. Để đảm bảo quyền lợi cho người thứ ba trong giao dịch với vợ chồng, việc lập hôn ước có thể được ghi trong giấy đăng ký kết hôn hoặc ghi rõ trong các văn bản giao dịch với người thứ ba, nếu không thì khi giao dịch với người thứ ba, vợ chồng được coi như là kết hôn theo chế độ pháp lý chung. + Về hiệu lực: - Lập hôn ước: Hôn ước phải do hai bên nam nữ thỏa thuận và phải được lập ra trước khi kết hôn. - Việc lập ra, thay đổi, hủy bỏ hôn ước phải được tuân theo những thủ tục chặt chẽ để đảm bảo sự tự nguyện và việc thực hiện bản hôn ước đó. - Việc sửa đổi hôn ước: * Sửa đổi trước khi kết hôn: Việc sửa đổi thỏa thuận về tài sản vợ chồng trước khi kết hôn phải do hai người nam nữ thỏa thuận, việc thỏa thuận này phải có mặt của các bên tham gia và người được ủy quyền. Bản hôn ước đã sửa đổi cũng phải đảm bảo những yêu cầu về hình thức cũng như đảm bảo quyền lợi cho người thứ ba như bản hôn ước đã lập ban đầu.Trang 10 * Sửa đổi sau khi kết hôn: Hôn ước chỉ được sửa đổi sau 2 (hai) năm áp dụng, việc thay đổi phải được công bố cho các người con đã thành niên và các chủ nợ, nếu những người được thông báo này phản đối thì việc sửa đổi hôn ước sẽ phải thông qua thể thức phê chuẩn của Tòa án nơi vợ chồng cư trú. Thực tế, nhà lập pháp của Pháp đã đưa ra một hệ thống các chế độ tài sản của vợ chồng, bao gồm chế độ tài sản pháp định và các chế độ tài sản ước định. Dưới ảnh hưởng của nguyên tắc tự do lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ tài sản pháp định không có hiệu lực áp dụng một cách đương nhiên, mà nó chỉ là một chế độ tùy nghi (facultatif). Những cặp đôi khi tiến đến hôn nhân hoàn toàn có quyền tự do thỏa thuận lựa chọn một chế độ tài sản để áp dụng. Nếu họ không thiết lập những thỏa thuận về vấn đề này, chế độ tài sản pháp định sẽ đương nhiên được áp dụng. Mặt khác, nguyên tắc tự do thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng còn giữ hiệu lực ngay cả trong những trường hợp chế độ tài sản đã được xác định, bằng việc vợ chồng có quyền thỏa thuận thay đổi. Sự thay đổi này có thể được thực hiện trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân. Theo quy định của Điều 1394 BLDS Pháp 1804, những thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng phải được tiến hành với sự tham gia của Công chứng viên, tuân theo những thể thức nhất định.  Nhật Bản Nhật Bản là một quốc gia hải đảo ở vùng Đông Á, tọa lạc trên Thái Bình Dương. Quốc gia này theo hệ thống Quân chủ lập hiến, được mệnh danh là xã hội nam quyền mang nặng nhiều biểu hiện phong kiến và bất bình đẳng giới. Tuy là một quốc gia nặng về truyền thống cộng đồng và gia đình nhưng lại có quy định về chế độ thỏa thuận giữa vợ chồng đối với tài sản (chế độ hôn ước) khá sớm, đó là do sự ảnh hưởng của pháp luật châu Âu lục địa cuối thế kỷ XIX. Cụ thể là vào năm 1896, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành Bộ luật dân sự dựa trên bản thảo Luật dân sự Đức mà trong bản thảo này có quy định về chế độ hôn ước và được các nhà làm luật Nhật Bản kế thừa. Qua những lần sửa đổi thời hậu chiến tranh thế giới thứ hai cho đến nay thì Bộ luật này vẫn còn nguyên giá trị và hiệu lực. Hôn ước được quy định trong Bộ luật dân sự Nhật Bản không chỉ kế thừa mà còn có sự chọn lọc cho nên nó không hoàn toàn giống với những gì được quy định trongTrang 11 bản thảo Luật dân sự Đức. Bộ luật dân sự Nhật Bản có những nét riêng của mình, cụ thể:  Quy định ghi nhận quyền được lập hôn ước của các cặp vợ chồng: được ghi nhận tại Điều 755 Bộ luật dân sự: “Các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng sẽ được tuân theo các quy định dưới đây nếu như vợ chồng không ký vào một hợp đồng quy định trước về tài sản của họ trước khi đăng ký kết hôn.”. Như vậy, quy định này cho phép vợ chồng có thể lựa chọn giữa chế độ tài sản pháp định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Ngoài ra, nếu vợ chồng muốn lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận thì cần phải thực hiện xác lập thỏa thuận trước khi đăng ký kết hôn, lúc đó thỏa thuận mới có thể đảm bảo về hiệu lực.  Về nội dung hôn ước: được quy định tại Điều 756 Bộ luật dân sự: “Nếu vợ chồng có một thỏa thuận về tài sản mà trong đó quy định khác với chế độ tài sản pháp định thì hôn ước này không được chống lại người thừa kế hàng thứ nhất của vợ hoặc chồng hoặc người thứ ba trừ khi nó được đăng ký trước khi đăng ký kết hôn.”. Quy định này cho thấy vợ chồng khi xác lập thỏa thuận về tài sản trước khi đăng ký kết hôn thì những thỏa thuận đó đối với tài sản có thể vượt ra khỏi khuôn khổ mà Bộ luật dân sự đã quy định, kể cả khi thỏa thuận đó ảnh hưởng đến quyền lợi của người thừa kế ở hàng thứ nhất của vợ hoặc chồng hoặc người thứ ba.  Về hình thức hôn ước: Các nhà làm luật Nhật Bản đã rất chú trọng đến hình thức của thỏa thuận về tài sản của vợ chồng, thể hiện qua việc dành riêng một văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh về hình thức của hôn ước và đăng ký hôn ước. Như vậy, vợ chồng muốn hôn ước được pháp luật công nhận và bảo vệ thì cần phải đáp ứng chặt chẽ về hình thức.  Quy định về thay đổi, sửa đổi hôn ước: được quy định tại Điều 761 của Bộ luật dân sự: “Hôn ước không được thay đổi trong thời kỳ hôn nhân trừ khi vợ hoặc chồng là người quản lý tài sản mà có hành vi phá tán tài sản và để thay đổi hôn ước, các bên phải đệ đơn lên Tòa án”. Với quy định này, nhà làm luật cho phép hôn ước được thay đổi, tuy nhiên phải đáp ứng điều kiện là bên quản lý tài sản có hành vi phá tán tài sản và các bên có đệ đơn lên Tòa án, được Tòa án chấp thuận.Trang 12 Để giải quyết về các tranh chấp tài sản giữa vợ chồng nói riêng hay các vấn đề nảy sinh khác trong gia đình nói chung thì ở Nhật Bản đã thành lập một Tòa án riêng biệt, cho thấy sự quan tâm lớn của Nhà nước đối với hôn nhân và gia đình. Như vậy, hôn ước được pháp luật Nhật Bản thừa nhận trong Bộ luật dân sự được thông qua năm 1896 và vẫn duy trì cho đến ngày nay. Tuy nhiên, các nhà làm luật Nhật Bản chỉ mới tập trung chú trọng đến hình thức của hôn ước mà bằng chứng là dành riêng cho nó một luật riêng với những quy định nghiêm ngặt để điều chỉnh. Trong khi đó, nội dung của hôn ước được quy định trong Bộ luật dân sự lại chủ yếu mang tính chất chung chung, chưa được quan tâm đúng mức.  Thái Lan Thái Lan (tên chính thức là Vương quốc Thái Lan) là một quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á, theo chế độ Quân chủ lập hiến. Mặc dù quốc gia này được mệnh danh là nơi của Đạo phật Nam Tông và nó được thể hiện khá rõ trong nếp văn hóa, sinh hoạt thường nhật của người dân cũng như trong pháp luật thời sơ khai. Tuy nhiên, đến khi người Thái di cư vào Đông Dương, chịu nhiều ảnh hưởng từ các quốc gia khác mà đặc biệt là từ các quốc gia đến từ phương Tây thì ngoài văn hóa, pháp luật Thái Lan cũng bắt đầu có những thay đổi nhất định. Những thay đổi trong pháp luật đến từ việc tiếp thu của quốc gia này: ban đầu là tiếp nhận pháp luật Anh vào giải quyết từng vụ việc; rồi đến xây dựng Bộ luật Dân sự và Bộ luật Hình sự đầu tiên theo Luật của Pháp, sau đó Bộ luật dân sự và thương mại được xây dựng theo pháp luật Pháp, còn BLHS dựa trên pháp luật Đức. Trong quá trình tiếp nhận ảnh hưởng đó, các nhà làm luật Thái Lan cũng đã ghi nhận chế độ hôn ước trong phần tài sản vợ chồng khi Bộ luật Dân sự và thương mại ra đời và được thông qua năm 1925, sửa đổi năm 2009. Cụ thể:  Quy định ghi nhận quyền được lập hôn ước của các cặp vợ chồng: được ghi nhận tại Điều 1465 của Bộ luật dân sự và thương mại: “Trong trường hợp vợ chồng trước khi kết hôn không có thỏa thuận đặc biệt về tài sản của họ thì quan hệ tài sản của họ sẽ được điều chỉnh bởi những quy định chung của chương này…”. Tại Điều này, nhà làm luật Thái Lan đang dẫn vào chế độ tài sản pháp định, tuy nhiên qua quy định này cũng cho thấy sự ưu tiên đối với chế độ tài sản theo thỏa thuận khi xếp nó lênTrang 13 trước chế độ tài sản pháp định được quy định tại Quyển 5 Bộ luật dân sự và thương mại.  Về nội dung hôn ước: cũng được quy đinh tại Điều 1465 của Bộ luật dân sự và thương mại: “…Hôn ước sẽ vô hiệu nếu có bất cứ điều khoản nào trái với trật tự công hoặc đạo đức xã hội hoặc quy định rằng quan hệ tài sản của họ sẽ được điều chỉnh bởi luật nước ngoài.”. Như vậy, nội dung hôn ước chỉ được áp dụng pháp luật quốc gia để điều chỉnh và còn phải tuân thủ các yêu cầu về đạo đức xã hội, trật tự công thì hôn ước đó mới được pháp luật đảm bảo không bị vô hiệu.  Về hình thức hôn ước: Hôn ước phải được đăng ký cùng với thời điểm đăng ký kết hôn, phải được lập thành văn bản và có ít nhất hai người làm chứng và nộp cùng thời điểm đăng ký kết hôn. Điều này được quy định tại Điều 1466 của Bộ luật dân sự và thương mại, là điều kiện về hình thức mà các cặp vợ chồng phải tuân thủ khi đăng ký hôn ước nếu không muốn hôn ước đó bị vô hiệu.  Quy định về thay đổi, sửa đổi hôn ước: được quy định tại Điều 1467: “Sau khi kết hôn hôn ước không thể sửa đổi trừ khi được sự chấp thuận của Tòa án có thẩm quyền và khi có quyết định cuối cùng về việc sửa đổi hay hủy bỏ hôn ước, Tòa án phải thông báo với nơi đăng ký kết hôn về vấn đề đó”. Quy định này cho phép vợ chồng thay đổi hôn ước trong thời kỳ hôn nhân và thẩm quyền cho phép thay đổi thuộc về Tòa án, tuy nhiên một số điều khoản của hôn ước sẽ không có hiệu lực với người thứ ba có thiện chí. Như vậy, hôn ước được pháp luật Thái Lan ghi nhận trong Bộ luật dân sự và thương mại năm 1925 sửa đổi năm 2009 và có thể thấy các nhà làm luật rất chú trọng đến chế định này, thể hiện qua việc quy định về nội dung, hình thức và thay đổi, sửa đổi hôn ước khá chi tiết, cụ thể và chặt chẽ. Điều này giúp nhà làm luật nâng cao khả năng quản lý, giảm thiểu bất công trong xã hội và ngăn ngừa sự lợi dụng hôn ước để trục lợi riêng cho bản thân hay trốn tránh nghĩa vụ.  Trung Quốc Trung Quốc (tên chính thức là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) là một quốc gia thuộc khu vực Đông Á, theo chế độ Xã hội chủ nghĩa song lại chuyên chế và xã đoàn với những hạn chế nghiêm ngặt trong nhiều lĩnh vực.Trang 14 Tuy nhiên, đối với lĩnh vực hôn nhân và gia đình thì có sự mềm dẻo hơn, đặc biệt là trong chế độ tài sản giữa vợ chồng: trước năm 2001 ở quốc gia này cũng chỉ áp dụng chế độ tài sản pháp định, tuy nhiên do sự phát triển của nền kinh tế thị trường cùng với sự gia tăng của cải cá nhân cũng như mức độ phức tạp ngày càng tăng của các vấn đề liên quan đến của cải có được từ quyền sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu đối với cổ phần và phần vốn góp mà việc thay đổi quy định pháp luật trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình cũng trở nên cấp thiết hơn bào giờ hết. Chính sự cấp thiết này, năm 2001 Luật hôn nhân ra đời và đã bổ sung quy định liên quan đến tiền hôn nhân hay hôn ước. Từ khi được công nhận, hôn ước ngày nay trở nên rất phổ biến ở những thành phố lớn của Trung Quốc như Thượng Hải, Bắc Kinh mà đối tượng chủ yếu là thế hệ trẻ. Hôn ước được biết đến như một chứng nhận tài sản trước hôn nhân. Tuy nhiên, điều này không phổ biến ở khu vực nông thôn và ở thế hệ lớn tuổi. Những đặc điểm của hôn ước trong Luật hôn nhân năm 2001:  Quy định ghi nhận quyền được lập hôn ước của các cặp vợ chồng: chế định này được ghi nhận tại Điều 17 và Điều 19 của Luật này: “Tất cả thu nhập kiếm được và tài sản của các bên được coi là tài sản chung ngoại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.”, “Vợ hoặc chồng có thể thỏa thuận ước định tài sản của mỗi bên trước và sau hôn nhân.”.  Về nội dung hôn ước: vợ chồng có thể lựa chọn áp dụng chế độ sở hữu tài sản, hoặc là sở hữu chung toàn bộ, hoặc là sở hữu chung một phần hoặc là sở hữu riêng. Nếu thỏa thuận này không rõ ràng hoặc thiếu thì quy định về chế độ sở hữu vợ chồng theo pháp luật được áp dụng. Như vậy, pháp luật Trung Quốc cho phép các cặp đôi lựa chọn giữa chế độ tài sản pháp định hoặc theo thỏa thuận. Khi chế độ tài sản theo thỏa thuận được lựa chọn mà không đáp ứng điều kiện về nội dung thì chế độ tài sản pháp định mặc nhiên được áp dụng.  Về hình thức hôn ước: Tất cả những thỏa thuận này đều phải được thể hiện bằng văn bản. Như vậy, pháp luật Trung Quốc vẫn tồn tại hai chế độ tài sản của vợ, chồng là: chế độ tài sản theo pháp định và theo thỏa thuận.Trang 15 1.1.2 Lịch sử phát triển về chế độ tài sản của vợ chồng tại Việt Nam  Chế độ tài sản của vợ chồng trước năm 1975 tại Việt Nam  Thời kỳ phong kiến Gắn với tiến trình phát triển của xã hội, pháp luật Việt Nam mang dấu ấn qua từng thời kỳ lịch sử. Trong giai đoạn xã hội phong kiến Việt Nam, nguồn luật chủ yếu là luật không thành văn bao gồm các lệ làng, luật tục, tập quán chính trị và luật thành văn bao gồm các văn bản đơn nhất, hội điển, pháp điển. Hai bộ luật tiêu biểu là Quốc triều hình luật (1483) và Hoàng Việt luật lệ (1815): Quốc triều hình luật được xem là Bộ luật phát triển nhất giai đoạn này, đặc biệt tiến bộ trong các quy định về hôn nhân gia đình, Quốc triều hình luật quy định có hai hình thức là hứa hôn - nghĩa vụ; có chế độ chia tài sản giữa vợ - chồng (Điều 374 – Điều 376) và người vợ được sở hữu tài sản như người chồng. Còn Hoàng Việt luật lệ quy định hôn nhân phải được hai gia đình đồng ý, hình thức hôn thư - sính lễ; quy định các trường hợp kết hôn - ly hôn; không có chế độ chia tài sản giữa vợ - chồng. Pháp luật Việt Nam thể hiện điển hình trong Quốc triều hình luật, Hoàng Việt luật lệ. Tổng quát, cổ luật Lê sơ phản ánh dân tộc, truyền thống dân tộc, tính nhân văn. Về kỹ thuật, quy phạm pháp luật mang tính cụ thể, chi tiết nhưng thiếu tính tổng quát thể hiện rõ các quy định có tính bắt buộc, dứt khoát. Riêng Hoàng Việt luật lệ có hạn chế lớn là các nội dung tiến bộ của Quốc triều hình luật bị bãi bỏ, việc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội nói chung hay trong mối quan hệ hôn nhân đều mang tính loại bỏ dần. Như giáo sư Vũ Văn Mẫu đã viết khi nhận xét về Hoàng Việt luật lệ: "Bao nhiêu những sự tân kỳ mới lạ trong bộ luật triều Lê đã không còn lưu lại một chút dấu tích nào trong luật nhà Nguyễn. Không còn những điều khoản liên quan đến hương hỏa, đến chúc thư, đến các điều kiện về giá thú, đến chế độ tài sản của vợ chồng." Trong xã hội phong kiến mang nặng bản chất “trọng nam khinh nữ”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” thì thân phận của người phụ nữ vô cùng thấp kém. Với những tư tưởng tiến bộ có chọn lọc từ những nét tinh hoa văn hóa, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc được thể hiện trong Quốc triều hình luật - bộ luật mang tư tưởng mới vượt lên trên những định kiến xã hội đương thời, cách nhìn nhận mới về việc bảo vệ người phụ nữ không chỉ trong hôn nhân, gia đình hay việc có tài sản riêng của mìnhTrang 16 mà còn trong nhiều lĩnh vực xã hội khác. Trong quan hệ hôn nhân gia đình, người phụ nữ cũng hưởng được một số quyền lợi quan trọng, thiết thực. Tính tiến bộ, nhân đạo trong việc quy định các quyền lợi của người phụ nữ cũng xuất phát từ những quan điểm tiến bộ của nhà làm luật. Tính tiến bộ, nhân văn của bộ luật còn được thể hiện ở trong các chế định về giao dịch dân sự mà người phụ nữ tham gia. Quy định của bộ luật là khi bán tài sản phải có đủ chữ kí của vợ và chồng. Vợ có quyền có tài sản riêng. Quốc triều hình luật đã ghi nhận sự bình đẳng tương đối về tài sản giữa người vợ và người chồng trong khối tài sản chung, trong việc hưởng tài sản thừa kế. Đây là những chế định dân sự tinh vi, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo luật hướng nho và phong tục, tập quán dân tộc bản địa. Phụ nữ có quyền có tài sản riêng, được thể hiện qua những quy định của Điều 376 – Quốc triều hình luật về việc chia tài sản khi người vợ chết trước (điền sản của vợ chia làm ba phần: chồng hai phần, người thừa tự một phần). Quy định này có thể được xem như một bước đột phá trong truyền thống pháp luật phong kiến nơi phụ nữ vốn “vô sản” thậm chí bản thân còn bị coi là “tài sản” của chồng. Quyền này với người được thừa kế tài sản của chồng chỉ được thừa nhận trong Quốc triều hình luật. Còn theo Hoàng việt luật lệ, người vợ không có quyền này, trừ một trường hợp hạn hữu: khi chồng làm quan mà chết, không còn ai hưởng tập ấm thì cho phép vợ nhỏ của người ấy theo lệ mà xin quan cấp lương nuôi sống đến mãn đời (Lệ 3 – Điều 76). Những quy định trên đây về quyền lợi của người phụ nữ cho ta thấy được tính tiến bộ và nhân đạo của pháp luật phong kiến Việt Nam, đồng thời thấy được truyền thống tôn trọng phụ nữ của dân tộc ta. Trong khuôn khổ xã hội này, tuy những quy định tiến bộ đến đâu cũng không thể thay thế hết được những phong tục tập quán lâu đời, nhưng Quốc triều hình luật có nhiều giá trị mang tính kế thừa cho pháp luật và xã hội Việt Nam sau này. Các quy định về hôn nhân gia đình trong các văn bản pháp luật thời kỳ xã hội phong kiến có tầm ảnh hưởng đối với đời sống xã hội song tuyệt nhiên chế độ tài sản của vợ chồng không được quy định như một chế định riêng rẽ và cụ thể. Pháp luật phong kiến cũng không đề cập đến một quy định nào mang tính nội hàm như “hôn ước”, cho đến khi thực dân Pháp sang đô hộ nước ta, đồng thời mang theo những tư tưởng - văn hóa mới du nhập vào Việt Nam.Trang 17  Thời kỳ Pháp thuộc Tiếp đến thời kỳ Pháp thuộc, luật pháp về dân sự ở Việt Nam mang đậm dấu ấn của Bộ luật Napoleon. Đất nước bị chia rẻ thành ba miền và được cai trị bằng những cách thức quản lý và chế định khác nhau thông qua việc ban hành và áp dụng các bộ luật riêng để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình. Miền Bắc áp dụng Dân luật Bắc kỳ (1931), miền Trung thi hành Dân luật Trung kỳ (1936) và miền Nam ban hành tập Dân luật giản yếu Nam kỳ (1883). Hôn ước được ghi nhận trong Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ, riêng tập Dân luật giản yếu Nam kỳ không có ghi nhận về hôn ước cũng như vấn đề tài sản vợ chồng tuy nhiên án lệ ở Nam kỳ trong thời kỳ này lại “luôn luôn nhắc lại nguyên tắc tự do lập hôn ước mà các Tòa án Pháp coi là lẽ đương nhiên được áp dụng trong khi không có luật viết”. Điều 104 Tiết thứ IV thiên thứ V quyển thứ nhất Dân luật Bắc kỳ quy định rằng: “Về đường tài sản, pháp luật chỉ can thiệp đến toàn thể vợ chồng là khi nào vợ chồng không có tùy ý lập ước riêng với nhau mà thôi, miễn là ước riêng ấy không được trái với phong tục và trái với quyền lợi người chồng là người chủ trương trong đoàn thể”. Điều 105 lại quy định rằng: “Phàm tư ước về tài sản giá thú phải làm thành chứng thư tại trước mặt “no-te”, hoặc do Lý trưởng thị thực, mà phải làm trước khi khai giá thú. Đã khai giá thú rồi thì không được thay đổi gì nữa. Hôn ước phải do các người có quyền ưng thuận trong việc giá thú ký nhận cho mới được. Phàm tư ước về tài sản giá thú, phải biện chú vào chứng thư giá thú thì mới có thể đem đối dụng với người ngoài được. Ai muốn xin trích lục chứng thư giá thú về khoản biên chú các tư ước ấy, thì sẽ do bộ lại cấp phát cho”. Có thể thấy hôn ước đã được thừa nhận trong Dân luật Bắc kỳ với đầy đủ các đặc điểm, tiêu chí cần có của một hôn ước. Về hình thức, hôn ước dưới thời này cũng buộc phải lập bằng văn bản và được xác nhận bởi công chứng viên hoặc lý trưởng; hôn ước phải lập trước khi kết hôn và không thể thay đổi trong suốt thời kỳ hôn nhân. Về nội dung, hôn ước không được trái với phong tục tập quán và quyền lợi của người chồng, trong giai đoạn này, quyền gia trưởng của người chồng được coi là một thứ trật tự công cần được bảo vệ.Trang 18 Dân luật Trung kỳ cũng quy định về hôn ước, nhưng cách sắp xếp cũng như nội dung đã chép theo bộ Dân luật Bắc kỳ, cả những nét chính và những nguyên tắc vẫn được giữ nguyên. Điều 102 và 103 của Dân luật Trung kỳ có nội dung hệt như Điều 104 và 105 Dân luật Bắc kỳ, có chăng là chỉ khác nhau về ngôn từ và sự khác nhau này không ảnh hưởng gì đến nội dung của quy định. Mặc dù là quy định của pháp luật Việt Nam, nhưng những quy định này đã chép gần như nguyên văn Điều 1387 Dân luật Pháp. Hôn ước và nguyên tắc tự do lập hôn ước không hề xuất phát từ nhu cầu của xã hội Việt Nam thời bấy giờ mà được du nhập vào Việt Nam dưới sự ảnh hưởng của pháp luật Pháp. Sự cấy ghép pháp luật không có tính toán này đã khiến cho các quy định về hôn ước trở nên thừa và vô tác dụng. Hầu như dân chúng đều chưa biết gì đến quy định pháp lý mới này. Hơn nữa, dưới chế độ phong kiến dẫu có quan tâm đến tài sản trong hôn nhân thì người ta cũng chỉ quan tâm đến sự môn đăng hộ đối của hai gia đình chứ không hề đề cập đến quyền lợi vật chất một cách quá rõ ràng và thiếu tinh thần giao hiếu như những gì quy định trong hôn ước. Mặt khác có lẽ cũng vì hôn ước không phù hợp với tình hình xã hội Việt Nam đương thời nên các nhà làm luật cũng chỉ quy định một cách “lấy lệ” khiến cho chúng ta dễ dàng thấy được tính không hoàn chỉnh, không chặt chẽ của quy định hôn ước khi xem xét toàn bộ các quy định về chế độ tài sản vợ chồng ở đây. Theo quy định thì khi sử dụng quyền tự do lập hôn ước, hai vợ chồng có thể tùy ý ấn định điều lệ mà sau này hai bên sẽ phải theo, song luật Việt Nam không nói rõ rằng: nếu không theo chế độ pháp định thì họ có thể chọn theo chế độ tài sản nào, mà tự bắt họ phải xây dựng toàn bộ quy định điều chỉnh tài sản của mình; thêm nữa là không hề có hướng dẫn thêm nào về hôn ước trong toàn bộ các quy định pháp luật thời đó. Trong khi Bộ luật dân sự của Pháp thì có rất nhiều nội dung trong chế độ tài sản cho vợ chồng lựa chọn nếu như vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản ước định. Chỉ việc quy định bỏ lửng đó của pháp luật Việt Nam đã khiến cho hôn ước vốn đã chẳng phù hợp với xã hội Việt Nam lại càng trở thành một chế định bất khả thi trong hệ thống pháp luật. Có thể nói, những quy định về hôn ước trong Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ vốn không hề được người dân quan tâm áp dụng và có lẽ những quy định này cũng dần dần không còn được ghi nhận trong những văn bản pháp luật sau này.Trang 19  Thời kỳ Mỹ xâm lược Trong giai đoạn đất nước bị Mỹ xâm lược và chia cắt thành hai miền Nam – Bắc, pháp luật Việt nam đã có những thay đổi lớn. Trong thời gian cầm quyền ở miền Nam Việt Nam, chính quyền Ngô Đình Diệm đã thông qua hai văn bản pháp luật mang tính pháp điển đó là Luật Gia đình năm 1959, Sắc luật 15/64 năm 1964 và Bộ luật dân sự năm 1972 của miền Nam Cộng Hòa. Đối với Luật gia đình năm 1959 Luật gia đình 1959, tại miền Nam (do chính quyền Ngô Đình Diệm cai trị, chính quyền tay sai của Pháp) thì Luật Gia đình ngày 2 tháng 1 năm 1959 công nhận sự thỏa thuận của vợ chồng về tài sản. Nhìn chung, Luật gia đình 1959 của Việt Nam có sự khác biệt đáng kể so với Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung Kỳ. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có một văn bản pháp luật chỉ quy định riêng về gia đình và kết cấu của nó không còn hoàn toàn giống với Dân luật Pháp. Tuy nhiên chỉ áp dụng cho miền Nam. Điều 45 Luật gia đình 1959 quy định: “Luật lệ chỉ quy định phu phụ tài sản khi nào vợ chồng không có lập hôn ước mà họ muốn làm ra sao cũng được miễn là không trái với phong hóa, trật tự công và quyền lợi của con”. Nguyên tắc luật chỉ can thiệp vào chế độ tài sản vợ chồng khi vợ chồng không lập hôn ước đã được thể hiện ngay tại đây, đây cũng là một quy định tương đối tiến bộ bởi quyền gia trưởng của người chồng đã không còn là một trật tự công cần được bảo vệ mà thay vào đó là quyền của con. Hôn ước trong Luật gia đình 1959 đã được quy định một cách cụ thể hơn. Hôn ước phải được lập bằng văn bản trước khi kết hôn, được công chứng và phải được công bố. Điều 46 Luật gia đình 1959 quy định: “hôn ước phải làm bằng chứng thư trước mặt trưởng khế hay một viên chức có thẩm quyền thị thực”, việc thị thực ở đây thực chất là công chứng. Hôn ước phải được lập trước khi kết hôn và phải được ghi vào trong giấy giá thú, vì như thế mới đảm bảo cho hôn ước có giá trị với người thứ ba. Riêng đối với những người buôn bán thì hôn ước của họ phải được niêm yết tại tòa thương mại và chủ cước vào sổ thương mại do phòng lục sự tòa này giữ. Bên cạnh đó, Luật gia đình còn quy định cả về sự vô hiệu của hôn ước, nó sẽ vô hiệu nếu như không đảm bảo các điều kiện về nội dung và hình thức; hôn ước không công bố thì không vôTrang 20 hiệu, nó chỉ không có hiệu lực với người thứ ba mà thôi; khi hôn ước vô hiệu thì chế độ tài sản của vợ chồng sẽ là chế độ tài sản pháp định (cộng đồng toàn sản); sự vô hiệu của hôn ước không ảnh hưởng tới việc kết hôn nhưng ngược lại nếu việc kết hôn bị vô hiệu thì đương nhiên hôn ước cũng vô hiệu, Luật cũng quy định là hôn ước chỉ có hiệu lực trong thời kỳ hôn nhân. Trong suốt thời kỳ hôn nhân, hôn ước không thể được sửa đổi. Khác với Dân luật Trung kỳ và Bắc kỳ, Luật gia đình 1959 quy định tương đối kỹ về vấn đề ly thân, Luật gia đình 1959 cấm ly hôn (chỉ được ly hôn khi được sự chấp thuận của Tổng thống) và quy định tương đối cụ thể về chế định ly thân cho nên có thể coi rằng hôn ước là một giải pháp để cho những cặp đôi sống ly thân có điều kiện để tiếp tục sống thoải mái và lần lượt các văn bản pháp luật sau cũng ghi nhận sự thỏa thuận này, cụ thể Sắc luật 15/64 ngày 23 tháng 7 năm 1964 và Bộ luật dân sự 1972 của Việt Nam Cộng Hòa. Bộ luật dân sự năm 1972 Ngày 20/12/1972 chính quyền Việt Nam cộng hòa có ban hành Bộ luật Dân sự năm 1972 trong đó phần phu phụ tài sản cũng dành các Điều từ 144 đến 149 để quy định về hôn ước với những quy định tương đối chung chung và không được rõ ràng như Luật Gia đình năm 1959. Bộ luật này cũng chỉ được áp dụng trong thời gian rất ngắn. Hôn ước được quy định trong Bộ luật Dân sự 1972 với những nét cơ bản sau: Luật pháp chỉ quy định chế độ phu phụ tài sản khi vợ chồng không lập hôn ước; vợ chồng được tự do lập hôn ước tùy ý muốn, miễn là không trái với trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục; hôn ước phải được lập trước khi kết hôn và được công chứng; hôn ước không thể thay đổi trong thời kỳ hôn nhân; hôn ước có thể sửa đổi trước khi kết hôn nhưng bản sửa đổi cũng phải được công chứng; hôn ước sẽ không có hiệu lực với người thứ ba nếu như không được ghi và giấy đăng ký kết hôn. Như vậy, chế định về hôn ước theo lịch sử ghi nhận cũng đã hình thành từ sớm.  Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công tại miền Bắc Việt Nam Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước ta đã ban hành hai sắc lệnh đầu tiên quy định điều chỉnh một số quan hệ hôn nhân và gia đình: sắc lệnh 159/SL ngày 17/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn, sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950Trang 21 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong Dân luật. Sắc lệnh số 97/SL là văn bản duy nht điều chỉnh về vấn đề tài sản vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trước khi có Luật hôn nhân và gia đình 1959 ra đời. Nói về quan hệ giữa vợ và chồng sắc lệnh chỉ có quy định tại Điều 5 “Chồng vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình” và Điều 6 “Người đàn bà có chồng có toàn năng lực về mặt hộ”. Sắc lệnh này không hề đề cập đến việc công nhận hay không công nhận hôn ước. Tuy nhiên Điều 1 Sắc lệnh có quy định “Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành sự nó đúng với quyền lợi của nhân dân”, hay Điều 14 lại quy định “Tất cả những điều khoản trong dân pháp điển Bắc kỳ, dân pháp điển Trung kỳ, Pháp quy giản yếu 1883 (sắc lệnh ngày 3/10/1883) thi hành ở Nam kỳ, và những luật lệ theo sau, trái với những điều khoản ở trên này đều bị bãi bỏ”. Cho nên, nếu hôn ước được lập mà không trái với quyền lợi của người vợ, không trái với quyền lợi của người chồng thì vẫn được coi là không trái với quyền bình đẳng của vợ chồng và được công nhận là có hiệu lực. Vậy nên theo nguyên tắc, hôn ước vẫn có thể được coi là không bị xóa bỏ trong pháp luật xã hội chủ nghĩa từ năm 1945 tới năm 1959. Hoặc có thể nói rằng một chế định bất khả thi thì việc xóa bỏ hay không xóa bỏ cũng không ảnh hưởng gì, nhưng điều đó cũng có nghĩa là người ta không hề quan tâm đến sự tồn tại của hôn ước vốn có trong Dân luật và nếu như vậy thì càng có nghĩa rằng sự tồn tại của hôn ước không hề mâu thuẫn với chế độ xã hội chủ nghĩa vì nếu nó mâu thuẫn về lý thuyết thì ngay lập tức người ta sẽ xóa bỏ nó. Kế thừa sự ra đời của Hiến pháp 1946. Năm 1959, Luật HN&GĐ được ban hành để điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ. Trong giai đoạn này, pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp định, quy định về hôn ước hoàn toàn không còn tồn tại trong pháp luật Việt Nam. Điều 15 Luật HN&GĐ 1959 quy định “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”, pháp luật Việt Nam không thừa nhận tài sản riêng của vợ chồng. Vì là văn bản đầu tiên nên số điều khoản còn hạn chế và chỉ áp dụng cho miền Bắc Việt Nam nên nhiều quy định chưa được đưa vào. Đến khi Luật HN&GĐ năm 1986 ra đời, chế độ tài sản vợ chồng ở Việt Nam là chế độ cộng đồng động sản và tạo sản thì tài sản riêng của vợ chồng mới được thừa nhận. Luật cũng cho phép vợ chồng được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (việc chia tài sản này phải có bản án của Tòa án).Trang 22  Chế độ tài sản của vợ và chồng trong các văn bản pháp luật sau năm 1975 tại Việt Nam Sau khi thống nhất hai miền Nam Bắc, kế thừa Hiến Pháp 1980 thì Luật HN&GĐ 1986 và Luật HN&GĐ 2000 lần lượt được ban hành nhằm khắc phục những nhược điểm và hạn chế của các văn bản pháp luật trước. Luật HN&GĐ 1986 là văn bản luật đầu tiên được ban hành áp dụng toàn quốc sau khi thống nhất đất nước. Theo Luật Hôn nhân và gia đình 1986, vợ chồng cũng không được thỏa thuận bất cứ vấn đề gì về sở hữu tài sản trừ vấn đề nhập tài sản riêng có trước hoặc trong thời kỳ hôn nhân thành tài sản chung. Các nhà lập pháp chỉ quy định một hình thức duy nhất là chế độ tài sản pháp định và không có sự thừa nhận về hôn ước (hay hiểu cách khác là chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng trước hôn nhân). Do đó, mọi thỏa thuận của vợ chồng về khối tài sản của họ đều bị coi là vô hiệu. Tiếp tục kế thừa Luật HN&GĐ 1986, 14 năm sau: để phù hợp với tình hình phát triển của xã hội, Luật HN&GĐ 2000 được ban hành. Tuy nhiên trong Luật HN&GĐ 2000 cũng chỉ quy định một CĐTS của vợ chồng là CĐTS theo pháp định. Điểm mới được ghi nhận trong văn bản Luật HN&GĐ 2000 là cho phép vợ chồng được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân và được quyền thỏa thuận tài sản nào là chung, tài sản nào là riêng trong thời kỳ hôn nhân. Nghị định số 70 của Chính phủ ngày 03 tháng 10 năm 2001 quy định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ 2000, đã tạo ra một sự thay đổi cơ bản gây nhiều tranh cãi về chế định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Theo những quy định này vợ chồng có thể thỏa thuận về việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thậm chí việc thỏa thuận chia tài sản này trong nhiều trường hợp chỉ cần lập bằng văn bản không có sự công chứng, chứng thực. Cụ thể là trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có quy định “thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác” (khoản 2, Điều 8), Điều 9, Điều 10 tiếp tục quy định về khả năng khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng. Các quy định này tuy mâu thuẫn với một số quy định của Luật HN&GĐ 2000 nhưng lại cho thấy ý tưởngTrang 23 của nhà lập pháp trong việc thừa nhận sự thỏa thuận của vợ chồng đối với khối tài sản của họ. Quy định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân theo Luật HN&GĐ 2000 và các văn bản hướng dẫn quy định về các thỏa thuận trong vấn đề tài sản vợ chồng đã tạo nên một sự khác biệt đáng kể so với chế độ tài sản pháp định thuần túy vẫn thường thấy. Như vậy, mặc dù chế định về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật hôn nhân và gia đình không được áp dụng cho đến trước năm 2014 ở nước ta nhưng ý tưởng khôi phục lại nguyên tắc trên đã được bàn bạc và cân nhắc trong thời gian nghiên cứu và dự thảo luật mới. Sự cần thiết và tính cấp thiết của việc luật hóa quy định này ở nước ta càng rõ ràng hơn khi mà các nước trong khu vực và hầu hết các quốc gia có nền lập pháp tiên tiến trên thế giới đều đã thừa nhận và áp dụng.  Chế độ tài sản theo thỏa thuận trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 Theo thời gian và sự phát triển không ngừng của xã hội, pháp luật cũng có những thay đổi để kịp thời điều chỉnh những quan hệ xã hội mới phát sinh trong thời đại mới, làm cho xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ, công bằng xã hội được nâng cao. Trong đời sống hiện nay, vai trò của gia đình rất quan trọng cần được giữ gìn và phát huy, đồng thời xóa bỏ những quan niệm cũ ảnh hưởng chưa tốt về hôn nhân gia đình cũng như góp phần nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà Nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình ở Việt Nam. Quy định về chế độ tài sản giữa vợ, chồng có sự đổi mới tích cực trong cách nhìn nhận của các nhà làm luật, họ cũng đưa ra những quan điểm phù hợp với thời đại, xu hướng của thế giới và phù hợp với văn hóa Việt Nam. Tại kỳ họp thứ 7, khóa XIII Quốc hội đã thông qua Luật Hôn nhân và Gia đình số 52/2014/QH13 ngày 19/06/2014 (hiệu lực từ ngày 01/01/2015). Quy định tại Điều 28 về chế độ tài sản trong luật mới vừa thừa nhận chế độ tài sản chung giữa vợ và chồng (chế độ tài sản của vợ, chồng theo luật định), vừa công nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng. Theo đó, chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thực thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 33 đến Điều 46 và từ Điều 59 đến Điều 64 của Luật này. Về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận - một điểm mới của Luật được quy định cụ thể tại các ĐiềuTrang 24 47, 48, 49, 50 và 59 của Luật này. Quy định chi tiết nội dung này, Nghị định 126/2014/NĐ-CP hướng dẫn giải thích chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng một cách đầy đủ hơn. Luật HN&GĐ 2014 được ban hành nhằm mục đích hoàn thiện hơn nữa về mặt pháp luật đối với chế độ tài sản vợ chồng nói riêng và chế độ hôn nhân gia đình nói chung, đều là những quy định cụ thể và rõ ràng trong cách xử lý các vấn đề phát sinh khác, nhằm đưa những chế định vào đời sống xã hội một cách dễ hiểu, dễ áp dụng. Đồng thời, chúng ta có thể thấy được sự tiến bộ, đổi mới trong tư duy và nắm bắt được những điểm tương đồng với thế giới khi Việt Nam đang dần tiến xa hơn trên con đường hội nhập quốc tế. Cùng với đó, sự phát triển của quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ, việc lựa chọn chế độ tài sản cũng là một điều quan trọng nếu có sự bất đồng về quan điểm giữa vợ chồng. Tuy nhiên, khi các nhà lập pháp nắm bắt được mấu chốt này, họ đã mở rộng chế định mới phù hợp với mọi đối tượng kết hôn trong mối quan hệ tài sản. Lý luận và thực tiễn không bao giờ có sự tách biệt, chúng luôn bổ sung, kết hợp và ràng buộc lẫn nhau. Sự kết hợp của tư duy pháp lý tiến bộ với truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và sự kế thừa những thành quả mà thế giới ghi nhận thông qua những quy định mang tính chất quy luật vốn có của hiện thực và được kiểm nghiệm bằng thực tiễn, nó đã mang đến cho con người cuộc sống tốt đẹp hơn, được sự bảo hộ tốt hơn về mặt pháp lý. Các nội dung cụ thể sẽ được nhóm nghiên cứu trình bày cụ thể hơn trong phần sau. 1.2 Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ, chồng Chế độ tài sản theo sự thỏa thuận của vợ chồng là một trong hai quy định về CĐTS được ghi nhận trong Luật HN&GĐ 2014. Các cặp vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ này hoặc thực hiện chế độ tài sản theo luật định. Việc xác lập chế độ tài sản nào là tùy thuộc vào sự lựa chọn của họ, nhằm đảm bảo được sự tự do về quyền lợi, về ý chí của các bên. Để có thể hiểu rõ hơn về chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng, nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu, phân tích khái niệm, đặc điểm về chế độ tài sản này. Xem xét tầm ảnh hưởng của quy định pháp luật trên đối với đời sống xã hội có vai trò, ý nghĩa như thế nào?Trang 25 1.2.1 Khái niệm về chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng “Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng theo luật định”. Hơn nữa, chế độ tài sản thỏa thuận giữa vợ chồng là sự thỏa thuận bằng văn bản do vợ chồng lập trước khi kết hôn để quy định chế độ tài sản của vợ trong trong suốt thời kỳ hôn nhân.Văn bản được xác lập sẽ là căn cứ pháp lý để điều chỉnh nghĩa vụ và quyền của vợ chồng về tài sản trong suốt thời kỳ hôn nhân của họ. Tuy nhiên, các điều khoản trong văn bản có thể sửa đổi khi ảnh hưởng không tốt đến lợi ích của gia đình, của bản thân vợ, chồng hay lợi ích của người thứ ba có quan hệ giao dịch với vợ chồng khi vợ chồng đã chọn lầm một chế độ tài sản hoàn toàn không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh gia đình, điều kiện nghề nghiệp… Các thỏa thuận trong văn bản có thể được thay đổi trong thời kỳ hôn nhân với những điều kiện pháp lý chặt chẽ được quy định cụ thể trong luật. 1.2.2 Đặc điểm của chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng thực chất là chế độ sở hữu của vợ chồng. Vợ, chồng với tư cách là công dân, vừa là chủ thể của quan hệ hôn nhân và gia đình, vừa là chủ thể của quan hệ dân sự khi thực hiện quyền sở hữu của mình tham gia các giao dịch dân sự. Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng có một số đặc điểm sau: Thứ nhất, xét về chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản này thì các bên phải có quan hệ hôn nhân hợp pháp với tư cách là vợ chồng của nhau. Do vậy, để trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu này các chủ thể ngoài việc có đầy đủ năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự còn đòi hỏi họ phải tuân thủ các điều kiện kết hôn được quy định trong pháp luật hôn nhân và gia đình. Đối với sự thỏa thuận tài sản này, hai bên nam – nữ phải lập văn bản thỏa thuận trước khi kết hôn và chỉ khi họ kết hôn với nhau thì văn bản này mới chính thức công nhận quyền sở hữu tài sản của vợ chồng đã định trước đó.

- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Bình luận